Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015
Phố Hiến hưng thịnh, suy tàn và suy nghĩ về phát huy nguồn lực con người
Do bối cảnh xã hội lúc đó, nhu cầu về một thương cảng để giao dịch với phương Tây đã bị suy giảm, nhất là sau khi cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc. Nhu cầu mua vũ khí ở cả hai phía không nhiều và các mặt hàng gấm, vóc, tơ, lụa, phẩm vật quý chỉ nhằm đáp ứng số ít quan lại chứ không phải là nhu cầu thiết yếu của dân chúng lao động. Các hãng buôn nước ngoài, nếu như người Hà Lan, người Anh đặt trọng tâm vào mở rộng thị trương buôn bán hàng hóa, thì người Bồ Đào Nha và người Pháp lại đặt trọng tâm vào truyền đạo để thực hiện dã tâm xâm lược. Điều đó đã dẫn đến sự nghi kỵ trong triều đình nhà Nguyễn và tâm lý bài ngoại, dẫn đến sự trục xuất vị Giám mục người Pháp và các vị truyền giáo Bồ Đào Nha năm 1696, có lẽ, mở đầu cho thời kỳ bài người phương Tây một cách triệt để vào thế kỷ XVIII - XIX, kể cả những thương nhân. Như vậy, không cần vũ khí phục vụ cho quân sự, bài người Tây, đuổi thương nhân thì còn đâu Phố Hiến? Hơn nữa, ngay từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) nhà nước phong kiến đã có tư tưởng “trọng nông ức thương”. Mặt khác, thời Lê - Trịnh, nhà nước đặt thêm các trạm kiểm soát để thu thuế buôn chuyến dọc sông Hồng (tại Phố Hiến ngạch thuế hằng năm là 653 quan 3 tiền 11 đồng, trong khi đó các bến cùng loại như Xước Cảng - Nghệ An chỉ là 24 quan 34 đồng, Trú Hựu - Kinh Bắc là 100 quan 6 tiền). Các tàu buôn đến Phố Hiến bị kiểm soát ngặt nghèo, thuế cao và nhân viên tuần ti sách nhiễu, đòi hối lộ. Cũng trong thời gian này, phần lớn những mặt hàng xuất khẩu tại Phố hiến được cung cấp từ Thăng Long và một số địa phương Đảng Ngoài, nên những phường sản xuất thủ công tại Phố Hiến cũng dần theo thời gian mà lụi tàn đi.
Vị ngọt của nhãn lồng vẫn còn đó, nhưng danh tiếng của một Phố Hiến từng là đô thị sầm uất vào loại nhất nhì trong cả nước đã mai một, mờ dần cùng năm tháng. Có nhiều cách tiếp cận và lý giải khác nhau về sự hưng thịnh và suy tàn của đô thị nổi tiếng một thời này. Bài viết xin đề cập tới khía cạnh phát huy được nguồn lực con người
Những năm của thế kỷ XVII là thời gian xuất hiện, phát triển của nhiều đô thị, trong đó có Phố Hiến, và không một người Việt Nam nào lại không biết đến câu “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
1. Sự phồn thịnh của Phố Hiến
“Phố Hiến nổi danh là nơi độ hội Tiểu Trường An của bốn phương” - tư liệu sớm nhất ở Việt Nam mà đến nay chúng ta biết được có nhắc đến tên Phố Hiến là bia chùa Thiên Ứng, dựng năm Vĩnh Tộ 7 (1625).
Về vị trí địa lý, Phố Hiến nằm bên tả ngạn sông Hồng, cách Thăng Long khoảng 50 km về phía bắc và cách biển trên 70 km về phía đông. Theo các nhà địa lý, vào thế kỷ XVII - XVIII, từ biển đến kinh thành Thăng Long, vùng từ Nhân Dục đến Mậu Dương, bờ sông có mức nước cao (3-4 mét) so với các vùng lân cận (1-2 mét), là khu vực tương đối thuận lợi để hình thành một tụ điểm buôn bán. Các thuyền buôn nước ngoài vào Phố Hiến chủ yếu qua ba cửa sông: cửa sông Đáy, cửa sông Thái Bình, cửa sông Cấm.
Về bối cảnh xã hội, cho tận đến thế kỷ XVI - XVII, nhiều hãng buôn nước ngoài muốn đặt thương điếm tại Thăng Long, nhưng đều bị chúa Trịnh khước từ mà phải đặt thương điếm tại Vân Đồn (Quảng Ninh) và sau này tại Phố Hiến. Phố Hiến ra đời với chức năng giao lưu buôn bán muộn hơn so với Thăng Long vài thế kỷ, nhưng lại là đô thị cảng - trên bến dưới thuyền, có ưu thế mạnh cả về nội thương và ngoại thương. Vào thời điểm này, Phố Hiến là nơi dừng lại của tất cả thuyền buôn nước ngoài đến Đàng Ngoài. Khi thuyền buôn nước ngoài đến chúa Trịnh chỉ cho vào Phố Hiến, nên nơi đây đã trở thành thương cảng quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thăng Long và các vùng lân cận cung cấp các mặt hàng sản xuất của mình cho Phố Hiến để trao đổi hàng hóa với nước ngoài, còn nội tại Phố Hiến không có nhiều sản vật để giao thương mà chỉ làm nhiệm vụ trung chuyển hàng hóa.
Về giao thương, sự có mặt của người Hoa ở các đô thị cổ nói chung và Phố Hiến nói riêng không những đã kích thích sự phát triển buôn bán giữa các đô thị cùng thời kỳ mà còn để lại nhiều dấu ấn văn hóa mang màu sắc Trung Hoa. Ở Phố Hiến lúc đó, ngoài người Hoa làm nghề buôn bán còn có nhiều thuyền buôn của người Nhật, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Anh... đến giao thương; có nhiều thương điếm của các công ty: Đông Ấn Anh (1672-1679), Đông Ấn Pháp (1681-1686), nhưng, phồn thịnh nhất của Phố Hiến khoảng 63 năm, kể từ khi Công ty Đông Ấn Hà Lan lập thương điếm tại đây (1637-1700). Qua sự phát triển của Phố Hiến có thể rút ra một số nhận xét khái quát như sau: Thứ nhất, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội trong vùng tác động không lớn tạo nên sự phồn thịnh của Phố Hiến. Thứ hai, các chính sách của chính quyền Lê - Trịnh có ảnh hưởng phần nào đến sự phồn thịnh của Phố Hiến. Thứ ba, ảnh hưởng rõ rệt đến sự phồn thịnh của Phố Hiến phải kể tới nghệ thuật buôn bán của người Hoa định cư tại đây; sau đó đến các công ty Đông Ấn Anh, Đông Ấn Pháp và đặc biệt là Đông Ấn Hà Lan.
Như vậy, sự phồn thịnh của Phố Hiến phần nhiều là do tác động của “ngoại lực” chứ không phải do “nội lực”. Cho nên, sự phồn thịnh đó không bền.
2. Phố Hiến suy tàn
Theo thời gian, dòng chảy của sông Hồng tại khu vực này có sự biến đổi. Nhiều tài liệu cho rằng, đến đầu thế kỷ XIX, bờ bồi ở khu vực này đã rộng ra đến 800 mét làm cạn thêm các bến cảng, nên không còn đủ khả năng tiếp nhận các thuyền buôn hay ghe mành cỡ lớn nữa... Đường vào Phố Hiến trở nên xa và không còn thuận tiện như trước. Bởi vậy, thương cảng Phố Hiến tự lụi tàn theo năm tháng là điều không tránh khỏi.
Mặt khác, nguyên nhân còn là do những thay dổi diễn ra trong hệ thống thương mại Á Đông. Khi kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX đã hình thành nhiều công trường thủ công và đô thị lớn sản xuất vàng, bạc, tơ lụa. Nhà Thanh khi chiếm được Đài Loan (1683) cũng bỏ chế độ đóng cửa với nước ngoài và hàng tơ lụa, gốm sứ của Trung Hoa hơn hẳn của Việt Nam được xuất sang nhiều nước. Như vậy, với nền kinh tế chậm tiến, hàng hóa chất lượng kém của Việt Nam không còn hấp dẫn thương nhân nước ngoài nữa và Phố Hiến chỉ “vang bóng một thời”!
3. Nhìn từ Phố Hiến: suy nghĩ về phát huy nguồn lực con người
Sự hưng thịnh của Phố Hiến là do có nhiều năm giao thương với nước ngoài, cùng các chính sách về kinh tế - xã hội và an ninh quốc gia của triều đình phong kiến đương thời. Tuy nhiên, Phố Hiến cũng chỉ hưng thịnh trong thời gian khoảng 100 năm, sau đó suy tàn. Sự suy tàn của Phố Hiến được lý giải bằng nhiều luận điểm khác nhau (biến đổi của sông Hồng, chiến tranh, chính sách thuế...); nhưng vấn đề cơ bản chưa được đề cập đến là nhà nước phong kiến và người dân Phố Hiến lúc đó chưa phát huy được nguồn lực con người để hội nhập, phát triển. Cụ thể là, với 20 phường, trong đó có 8 phường làm nghề thủ công (bia Chùa Chuông, năm 1711), nhưng các mặt hàng tơ, lụa, đồ gốm sứ... chất lượng cao sản xuất tại Phố Hiến không có mà phải nhập từ Thăng Long và các vùng lân cận để bán cho người nước ngoài. Là đô thị buôn bán sầm uất sau Thăng Long, nhưng Phố Hiến không có những làng nghề thủ công sản xuất các mặt hàng tinh sảo như vàng bạc Châu Khê, gốm sứ Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc, đúc đồng Đại Bái... và thiếu những nghệ nhân tài trí, như Đặng Huyền Thông, Bùi Thị Hý đã tạo ra sản phẩm gốm Chu Đậu tinh sảo xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới từ thế kỷ XVI.
Trên một góc độ nào đó, Phố Hiến chỉ thuần túy là nơi buôn bán và chưa tạo ra cho mình một hướng chiến lược lâu dài cũng như tạo lập và gắn kết chặt chẽ với các vùng trong vành đai kinh tế của mình. Rõ ràng, vai trò của nguồn lực con người chưa được phát huy tới mức cao nhất. Có thể xem xét rộng hơn vấn đề phát huy nguồn lực con người trên các khía cạnh sau:
- Về mối quan hệ giữa các nguồn lực: Trong giao thương buôn bán, để phát triển kinh tế của chính quyền phong kiến ngày xưa cũng như tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, đòi hỏi phải có các nguồn lực cần thiết là: nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình phát triển, nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình đó không giống nhau; trong đó, nguồn lực con người phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn lực con người phải trở thành động lực phát triển. Bởi vì, con người vừa là điểm khởi đầu, vừa là sự kết thúc; đồng thời là trung tâm của sự biến đổi lịch sử.
- Vai trò nguồn lực con người: Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng và chúng chỉ có tác dụng khi có tác động tích cực của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, cải tạo thế giới. Cùng với thời gian, các nguồn lực khác có thể bị cạn kiệt thì nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận về trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh; nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý thì trí tuệ con người phát triển như một quá trình vô tận.
Đúng như C. Mác đã dự báo, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển, vận động đến kinh tế trí tuệ. Ở những nước này, lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Lợi nhuận mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản phẩm. Với những công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra, ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ trong các lĩnh vực sinh học, tin học, vật liệu mới.... Thực tiễn của nhiều nước và của nước ta cho thấy, thành công của phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách, cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Rõ ràng, trong các nguồn lực có thể khai thác để phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi vì của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó.
Trong xu thế đổi mới và phát triển đất nước, Phố Hiến - TP Hưng Yên sẽ có nhiều biến đổi, phát triển sôi động và trở thành Thành phố. Tác giả bài viết xin góp đôi điều suy nghĩ cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của một Thành phố tương lai.
.
Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015
[MV] Hưng Yên Của Tôi - Enly ft C1 & Dũng Max
Google Account Video Purchases
Việt Nam
Thứ Tư, 7 tháng 1, 2015
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Phố Hiến được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam vừa kí ban hành Quyết định số 2408/QĐ-TTg về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Theo đó có 14 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đợt này (đợt 5), trong đó có Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Phố Hiến của Hưng Yên. Ngoài ra còn có 13 di tích khác được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt trong đợt này gồm: Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Di tích lịch sử Khu đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút (huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La (thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La). Di tích lịch sử Trại giam Phú Quốc (huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang). Di tích lịch sử Địa đạo Vĩnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị). Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội). Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Phật Tích (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội). Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội). Di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng).
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam cũng yêu cầu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng trong phạm vi quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
T.L
Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)